Rất nhiều bệnh lý khớp gối liên quan đến gân, mạch máu, thần kinh, khớp và các cấu trúc quanh khớp có thể chẩn đoán chính xác bằng siêu âm. Mặt khác kĩ thuật này cũng có những hạn chế nhất là trong chẩn đoán các bệnh lý liên quan đến dây chằng chéo và sụn chêm do vậy người làm siêu âm khớp cần có hiểu biết về bệnh học để khắc phục các hạn chế này . Siêu âm khớp gối được thực hiện với đầu dò phẳng tần số từ 5- 10Hz.
Danh mục: Chuyên đề
Các tổn thương dạng nang rất hay gặp trên thăm khám MRI và CLVT sọ não. Có thể chia ra nhiều loại dựa vào cơ chế bệnh sinh như: do biến thể giải phẫu, bẩm sinh, có nguồn gốc từ nội bì hay ngoại bì, do nhiễm trùng hay các u dạng nang khác. Trên MRI: các chuỗi xung Diffusion và FLAIR giúp thu hẹp các chẩn đoán phân biệt của tổn thương dạng nang. Ngoài ra dựa vào vị trí và đặc điểm của nang giúp chúng ta có thể chẩn đoán phân biệt các tổn thương dạng nang nội sọ.
Tổn thương da và dưới da rất hay gặp trên thực hành lâm sàng. Chẩn đoán hình ảnh có vai trò rất quan trọng trong chẩn đoán và điều trị. Có nhiều phương tiện để chẩn đoán các bệnh lý da và dưới da: siêu âm, MRI, CLVT…
Phương pháp điều trị hiệu quả các u gan bằng phương pháp ít xâm lấn.
Xẹp đốt sống gây ra những cơn đau, biến dạng cột sống và ảnh hưởng đến vận động. Xẹp đốt sống hay gặp ở phụ nữ sau mãn kinh và người cao tuổi mà nguyên nhân thường do loãng xương. Phương pháp cổ điển là điều trị bằng mổ, nhưng phương phương pháp này có nhiều nhược điểm như đau, thời gian nằm viện kéo dài, có nhiều biến chứng trong và sau mổ. Với sự phát triển của y học hiện đại, ngày nay chữa xẹp đốt sống bằng bơm xi măng sinh học được ưa thích hơn mổ do giảm đau nhanh chóng, không nằm viện hoặc nằm viện ngắn, ít biến chứng.
Bệnh lý u vùng hầu rất hay gặp. Chẩn đoán hình ảnh có vai trò rất quan trọng chẩn đoán xác định cũng như đưa ra các chiến lược điều trị. Tuy nhiên chưa có sự thống nhất giữa các bác sỹ chẩn đoán hình ảnh cũng như bác sỹ lâm sàng về sử dụng phương pháp nào để đánh giá bệnh lý vùng hầu. Vì thế BS Phạm Chính Trực – khoa CĐHA BV Đại Học Y đã giành thời gian và tâm huyết để biên dịch các tài liệu cập nhật nhất về các phương pháp chẩn đoán hình ảnh và kỹ thuật thăm khám của từng phương pháp chẩn đoán hình ảnh trong bệnh lý vùng hầu. Xin giới thiệu để các quý bác sỹ và đồng nghiệp tham khảo.
Ung thư vú là một trong những bệnh lý ác tính thường gặp nhất ở nữ giới. Khi có biểu hiện bệnh thường đã ở giai đoạn muộn với khả năng chữa khỏi rất thấp. Ung thư vú có thể phát hiện sớm từ khi chưa biểu hiện triệu chứng bằng các phương pháp chẩn đoán hình ảnh. Ở giai đoạn sớm của bệnh, ung thư vú có thể được chữa khỏi hoàn toàn. Nếu phát hiện sớm ung thư vú, mỗi năm sẽ có rất nhiều phụ nữ được cứu sống. Chính vì vậy, việc sử dụng các phương tiện chẩn đoán hình ảnh để thăm khám định kỳ sàng lọc phát hiện bệnh ở giai đoạn sớm là rất quan trọng. Bài viết này đề cập đến những phương tiện chẩn đoán hình ảnh dùng trong sàng lọc phát hiện sớm ung thư vú.
Bất thường hệ xương là bất thường bẩm sinh hay gặp với tần suất 1/500 trẻ sinh ra và được chia làm ba nhóm: 1-Phối hợp với các bất thường NST hoặc các hội chứng. 2-Bất thường hệ xương đơn thuần, các biến dạng do không phát triển hoặc đứt đoạn trên một cấu trúc xương bình thường trước đó như hội chứng dải sợi ối. 3-Bất thường do rối loạn cấu tạo xương – loạn sản xương. Siêu âm thường dễ bỏ xót nếu thăm khám không cẩn thận đặc biệt ở các quý III của thai kỳ. Tuần thai siêu âm tốt nhất đánh giá hệ xương là 18-20 tuần.
Các thuật ngữ: Thai nhỏ so với tuổi = Small for gestational age (SGA) Thai chậm phát triển = Fetal growth restriction (FGR), intrauterin growth restriction (IUGR). Khái niệm: Thai nhỏ so với tuổi + khỏe mạnh ≠ thai chậm phát triển. Thai nhỏ bệnh lý = thai chậm phát triển. Định nghĩa: Trọng lượng thai nhỏ hơn 10 bách phân vị (Estimated fetal weight (EFW) < 10th percentile for gestational age (GA)). Nguy cơ thai lưu, tử vong và mắc bệnh sơ sinh cao.
Ths. Bs Nguyễn Ngọc Cương