Trước một bệnh nhân liệt thần kinh mặt việc quan trọng nhất là cần tìm nguyên nhân. Bệnh nhân có thể đến chuyên khoa Thần kinh, Tai Mũi Họng, Đông y… Khi đó các đồng nghiệp cần lựa chọn phương tiện hình ảnh gì để hỗ trợ cho chẩn đoán của mình. Đôi khi việc thảo luận với bác sĩ chẩn đoán hình ảnh có thể là một lựa chọn tốt, và kết quả cuối cùng là để bệnh nhân được chẩn đoán và điều trị tối ưu. Chúng tôi giới thiệu một trường hợp liệt dây VII ngoại biên của bác si Tai Mũi Họng 🙂
Danh mục: Chuyên đề
Hồi hải mã là là một cấu trúc nằm bên trong thuỳ thái dương. Nó tạo thành một phần của hệ viền (Limbic system) và có liên quan đến hoạt động lưu giữ thông tin và hình thành ký ức trong trí nhớ dài hạn và khả năng định hướng trong không gian. Tổn thương hồi hải mã có thể gặp trong nhiều bệnh lý thần kinh như: động kinh, teo hồi hải mã, viêm não…Vì thế hiểu biết được cấu tạo giải phẫu bình thường và các dạng tổn thương hồi hải mã trên cộng hưởng từ có thể giúp chẩn đoán sớm các bệnh lý,
Nhiễm trùng nội sọ tần suất xu hướng tăng nguyên nhân do AIDS, các thuốc ức chế miễn dịch khác nhau. Tác nhân: Virut, prion, vi khuẩn, nấm, KST. Lây truyền chủ yếu đường máu và ít hơn là đường kế cận. Điều trị khỏi hoàn toàn nếu phát hiện sớm và chẩn đoán xác định loại nhiễm trùng. Hình ảnh học thần kinh chiếm một vị trí quan trọng trong chẩn đoán, kết hợp với bệnh sử, khám thực thể và xét nghiệm dịch não tủy. Hình ảnh cộng hưởng từ khuếch tán giúp phát hiện sớm và phân biệt với các bệnh lý khác. CHT phổ (MRS) và CHT tưới máu (MRP) có thể bổ sung chẩn đoán trong những trường hợp riêng biệt.
Xung FLAIR là chuỗi xung được sử dụng rộng rãi ở não. Nó là chuỗi xung phục hồi đảo chiều, được thiết kế để khử các tín hiệu dịch não tủy. Nó rất nhạy trong việc phát hiện các tổn thương cạnh hoặc trong dịch não tủy liên quan với T2 kéo dài và T1 rút ngắn. Thuật ngữ ”dịch não tủy tăng tín hiệu” được sử dụng để mô tả việc không khử được dịch, hoặc tăng tín hiệu của dịch não tủy trên FLAIR. “Dịch não tủy tăng tín hiệu” thường xảy ra ở nhiều bệnh lý quan trọng như: xuất huyết dưới nhện, viêm màng não và di căn màng mềm
Hội chứng Pierre Robin (SPR) là một chuỗi các dị tật bẩm sinh hiếm gặp, theo các tác giả Mỹ, tỷ lệ gặp khoảng 1:8500 trẻ, tỷ lệ nam: nữ khoảng 1:1. Hội chứng này được Pierre Robin báo cáo lần đầu tiên năm 1926. Bệnh được tác giả định nghĩa là dị tật bẩm sinh, bao gồm bộ ba triệu chứng là cằm nhỏ, lưỡi bị đẩy về phía sau và hở vòm miệng (thường là hở màng mềm phía sau)
Siêu âm tĩnh mạch sâu rất đơn giản, cơ bản nhất là xác định tĩnh mạch, ấn rồi thả để tìm dấu hiệu xẹp hoàn toàn của tĩnh mạch…
Phá huỷ hạch giao cảm chi phối đau tạng có thể áp dụng trong điều trị chống đau ung thư giai đoạn cuối hoặc đau bụng mạn tính do nguyên nhân lành tính…
Rất nhiều bệnh lý khớp gối liên quan đến gân, mạch máu, thần kinh, khớp và các cấu trúc quanh khớp có thể chẩn đoán chính xác bằng siêu âm. Mặt khác kĩ thuật này cũng có những hạn chế nhất là trong chẩn đoán các bệnh lý liên quan đến dây chằng chéo và sụn chêm do vậy người làm siêu âm khớp cần có hiểu biết về bệnh học để khắc phục các hạn chế này . Siêu âm khớp gối được thực hiện với đầu dò phẳng tần số từ 5- 10Hz.
Các tổn thương dạng nang rất hay gặp trên thăm khám MRI và CLVT sọ não. Có thể chia ra nhiều loại dựa vào cơ chế bệnh sinh như: do biến thể giải phẫu, bẩm sinh, có nguồn gốc từ nội bì hay ngoại bì, do nhiễm trùng hay các u dạng nang khác. Trên MRI: các chuỗi xung Diffusion và FLAIR giúp thu hẹp các chẩn đoán phân biệt của tổn thương dạng nang. Ngoài ra dựa vào vị trí và đặc điểm của nang giúp chúng ta có thể chẩn đoán phân biệt các tổn thương dạng nang nội sọ.
Tổn thương da và dưới da rất hay gặp trên thực hành lâm sàng. Chẩn đoán hình ảnh có vai trò rất quan trọng trong chẩn đoán và điều trị. Có nhiều phương tiện để chẩn đoán các bệnh lý da và dưới da: siêu âm, MRI, CLVT…