Các bạn click chuột phải vào ảnh để xem và Download.
Danh mục: Bài Giảng
Lồi mắt do nguyên nhân mạch máu chỉ tình trạng thông động mạch cảnh trong và hoặc cảnh ngoài trực tiếp vào xoang hang. Bình thường tĩnh mạch mắt đổ vào đầu trước của xoang hang nhưng khi có thông động tĩnh mạch, áp lực dòng chảy trong xoang hang lớn làm cho dòng chảy tĩnh mạch ngược trở lại mắt dẫn đến tình trạng lồi mắt, giãn các mạch máu giác mạc, kết mạc tạo thành các tia mạch máu. Tĩnh mạch mắt giãn sẽ chảy theo tĩnh mạch mặt, tĩnh mạch thái dương nông… đổ về tĩnh mạch cảnh trong và cảnh ngoài. Bệnh nhân thường đến khám chuyên khoa mắt nhưng các thăm khám về mắt thường cho kết quả bình thường và không có điều trị đặc hiệu. Có hai kiểu thông động tĩnh mạch – xoang hang khác nhau về nguyên nhân, bản chất tổn thương và cách điều trị nhưng có cùng một biểu hiện lâm sàng: rò động mạch cảnh – xoang hang sau chấn thương và thông động mạch – xoang hang do các mạch nhánh bên nhỏ của động mạch cảnh đổ trực tiếp vào xoang tĩnh mạch hang.
Các nốt mờ phổi thường được phát hiện tình cờ trên CLVT Vai trò của CĐHA:Phân loại (lành tính, nghi ngờ ác tính, không rõ…), đưa ra các hướng giải quyết tiếp theo (theo dõi, sinh thiết…). “Fleischner Society guideline” 2017 thay thế cho guideline 2013, giúp giảm số lần theo dõi không cần thiết và đưa ra cách thức quản lý rõ ràng hơn. Y/c chụp CLVT với các lát cắt mỏng < 1.5mm
BS Đoàn Tiến Lưu Khoa Chẩn đoán hình ảnh BV đại học Y Hà Nội
BS ĐOÀN TIẾN LƯU Bệnh viện Đại học Y Hà nội
THÔNG BÁO VỀ KHOÁ HỌC SIÊU ÂM THAI TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y HÀ NÔI Khoa Chẩn đoán hình ảnh Bệnh viện Đại học Y Hà Nội tổ chức các buổi giảng cập nhật kiến thức về siêu âm thai, phát hiện các bất thường thai và phần phụ thai ở các giai đoạn phát triển. Các bài giảng được thực hiện bởi bác sĩ Đoàn Tiến Lưu, bác sĩ chuyên sâu về siêu âm thai tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Thời gian: từ 16h30 – 18h, các ngày 13, 15 và 17 tháng 11 năm 2017. Địa điểm: Hộ trường 301, nhà A7, trung tâm đào tạo theo nhu cầu xã hội- trường đại học Y Hà Nội Đối tượng: các bác sĩ trẻ quan tâm, các bác sĩ học viên các lớp chính quy về chẩn đoán hình ảnh của trường đại học y Hà Nội. Vào cửa tự do. Trân trọng thông báo
Lấy máu chọn lọc tĩnh mạch ngoại vi qua catheter nhằm mục đích xác định vị trí của u tuyến nội tiết hoặc cường chức năng tuyến. Phương pháp này được áp dụng khi các phương pháp thăm dò không xâm lấn không thể xác định được vị trí u. Điều này có thể do một số nguyên nhân: kích thước u nhỏ, có sự kết hợp của cường chức năng tuyến kèm theo hoặc có sự tồn tại của tổn thương khác của tuyến (u tuyến không chế tiết). Cơ sở của phương pháp là một ống thông được luồn chọn lọc vào các tĩnh mạch dẫn lưu hormon tuyến nội tiết để lấy máu định lượng hormon, từ đó cho phép khẳng định chính xác tuyến nội tiết nào là nguyên nhân của cường chức năng nội tiết. Mặc dù phương pháp này đã được dùng và thấy đâu đó trong các báo cáo quốc tế nhưng ở Việt Nam chưa thấy trung tâm nào triển khai kỹ thuật này. Một phần vì kỹ thuật này được chỉ định cho một số ít các bệnh lý u thần kinh nội tiết vốn đã không phổ biến, một phần vì các bác sĩ điện quang can thiệp và lâm sàng Nội tiết ít quan tâm nên không biết đến. Tuy nhiên trong một số trường hợp thì đây sẽ là một cứu cánh cho các bác sĩ lâm sàng đứng trước bệnh nhân với hội chứng cường tuyến nội tiết rất rõ nhưng không thể xác định được vị trí tổn thương ở đâu mặc dù đã dùng đủ mọi cách! Tại bệnh viện Đại học Y Hà Nội, chúng tôi đã triển khai kỹ thuật này trên một số bệnh nhân cường cận giáp nguyên phát phức tạp với kết quả bước đầu khá khả quan. Các tuyến nội tiết có thể áp dụng phương pháp này gồm tuyến thượng thận, tuyến tụy tiết insulin (insulinoma), tuyến yên (trong bệnh lý Cushing), tuyến cận giáp. Trong bài viết này, chúng tôi trình bày tổng quan về chỉ định, kỹ thuật và phiên giải kết quả của phương pháp định lượng hormon các tuyến nội tiết qua catheter đồng thời so sánh với các phương pháp chẩn đoán không xâm lấn khác nhằm cung cấp cho các bác sỹ Nội tiết một công cụ góp phần vào chẩn đoán và điều trị bệnh.
Bài giảng trên trang Sonoworld được dịch và chú thích bằng phụ đề. Dành cho các bác sỹ mới nhập môn chuyên ngành siêu âm.
Hội chứng Pierre Robin (SPR) là một chuỗi các dị tật bẩm sinh hiếm gặp, theo các tác giả Mỹ, tỷ lệ gặp khoảng 1:8500 trẻ, tỷ lệ nam: nữ khoảng 1:1. Hội chứng này được Pierre Robin báo cáo lần đầu tiên năm 1926. Bệnh được tác giả định nghĩa là dị tật bẩm sinh, bao gồm bộ ba triệu chứng là cằm nhỏ, lưỡi bị đẩy về phía sau và hở vòm miệng (thường là hở màng mềm phía sau)
Rất nhiều bệnh lý khớp gối liên quan đến gân, mạch máu, thần kinh, khớp và các cấu trúc quanh khớp có thể chẩn đoán chính xác bằng siêu âm. Mặt khác kĩ thuật này cũng có những hạn chế nhất là trong chẩn đoán các bệnh lý liên quan đến dây chằng chéo và sụn chêm do vậy người làm siêu âm khớp cần có hiểu biết về bệnh học để khắc phục các hạn chế này . Siêu âm khớp gối được thực hiện với đầu dò phẳng tần số từ 5- 10Hz.