ĐIỀU TRỊ CÁC BỆNH LÝ ĐỘNG MẠCH CHỦ NGỰC BẰNG STENT GRAFT

1.   Giải phẫu động mạch chủ ngực

 

Động mạch chủ là động mạch lớn nhất trong cơ thể đưa máu từ tim đi nuôi toàn bộ cơ thể. Động mạch chủ ngực là toàn bộ động mạch chủ phần nằm ở ngực, phía trước cột sống. Kích thước bình thường của động mạch chủ ngực tăng dần cùng với tuổi bệnh nhân và nằm trong khoảng từ 2 đến 3,5 cm.

Động mạch chủ ngực cho các nhánh quan trọng đi nuôi tim, não, đầu cổ và cột sống (hình 1).

Hình 1. Các nhánh chính của động mạch chủ ngực

2.   Những bệnh lý động mạch chủ ngực

Bệnh lý động mạch chủ ngực thường gặp ở người cao tuổi. Có một số yếu tố ảnh hưởng đến sự toàn vẹn và đàn hồi của thành động mạch chủ ngực bao gồm: tuổi tác, xơ vữa thành mạch, tăng huyết áp mạn tính, chấn thương ngực và một số bất thường về di truyền. Theo đó, thành mạch mất độ vững chắc và có thể gây rò hoặc nặng hơn là vỡ thành mạch do áp lực lớn của dòng máu. Những bệnh lý chính của động mạch chủ ngực bao gồm phình động mạch, bóc tách, chấn thương mạch, loét thành mạch, tụ máu trong thành mạch và rò động tĩnh mạch.

Phình động mạch chủ ngực là hiện tượng tăng kích thước khu trú động mạch chủ ngực hình túi (phình hình túi) hoặc hình thuôn dài (phình hình thoi) gây ra do một điểm yếu trên thành mạch (hình 2).

Tách thành mạch là hiện tượng bóc tách bất thường các lớp của thành động mạch. Tách thành mạch xảy ra khi có dòng chảy qua một vết rách nhỏ của thành mạch để tạo thành một dòng chảy mới nằm giữa lớp trong và lớp ngoài của thành động mạch chủ (hình 3).

3.   Stent graft động mạch chủ ngực là gì?

Stent graft là một giá đỡ bằng kim loại được phủ bởi màng sợi tổng hợp (hình 4).

Stent graft được thiết kế để loại trừ đoạn động mạch bệnh lý của động mạch chủ và tạo nên độ vững chắc cho thành mạch. Nó giúp giảm nguy cơ vỡ đoạn mạch bệnh lý và điều chỉnh dòng chảy trong lòng mạch đúng với sinh lý.

Stent graft đi trong lòng của một ống dẫn, đây là một ống dài chứa stent bên trong và giải phóng ra stent khi đã đặt vào đúng vị trí. Ngay khi mở stent vào đúng vị trí, ống dẫn trên được lấy ra khỏi cơ thể bệnh nhân.

Hình 4. Stent graft

4.   Một ca đặt stent graft tiến hành thế nào?

Bệnh nhân có thể được gây tê tại chỗ, gây tê tuỷ sống hoặc gây mê toàn thân, thông thường một ca đặt stent graft, bệnh nhân chỉ cần được gây tê tuỷ sống. Trước thủ thuật, bệnh nhân được làm các xét nghiệm đánh giá tổn thương động mạch và các bệnh lý kèm theo. Một vết rạch nhỏ ở bẹn để tạo đường vào cho stent. Sử dụng sự trợ giúp của máy chụp mạch, hệ thống dẫn và stent được đưa vào đúng vị trí tổn thương mạch máu. Khi stent được đặt đúng vị trí, stent graft được mở theo đúng kích thước thực của nó. Tuỳ thuộc vào hình thái và kích thước tổn thương có thể đặt một, 2 hoặc 3 stent graft. Thời gian tiến hành thủ thuật khoảng 1 đến 3 tiếng. Sau can thiệp, bệnh nhân nằm viện 1 đên 3 ngày ở bệnh phòng, không cần phải nằm ở khoa hồi sức tích cực.

5.   Theo dõi bệnh nhân sau đặt stent graft

Sau thủ thuật, bệnh nhân được tái khám 2 – 3 lần trong năm đầu tiên, sau đó ít nhất 1 lần một năm trong những năm sau. Mỗi lần đến tái khám, bệnh nhân được chụp CT hoặc các phương pháp thăm khám chẩn đoán hình ảnh khác. Mục đích của thăm khám là để chắc chắn stent vẫn ở đúng vị trí trong động mạch chủ và không phát sinh thêm tổn thương mới.

 

 

Đặt stent động mạch chủ ngực điều trị các bệnh lý động mạch chủ ngực là một phương pháp hiệu quả, an toàn và ít xâm lấn cho bệnh nhân. Phương pháp này được áp dụng ở các nước Âu, Mỹ từ đầu những năm 2000 và bắt đầu áp dụng ở nước ta từ năm 2011; Hiện nay ở Việt Nam kỹ thuật này được triển khai ở nhiều trung tâm can thiệp tim mạch. Trong một số trường hợp khó, việc kết hợp mổ bắc cầu nối (hybrid) và đặt stent graft là một chỉ định hợp lý để giảm thiểu một cuộc đại phẫu cho bệnh nhân mà giai đoạn hậu phẫu hết sức nặng nề

Hình 6. Ca mổ bắc cầu nối động mạch và đặt stent trong phòng mổ

Hình 7. A, Phim chụp mạch trước đặt stent. B, Stent 36/32/160 mm chưa mở trong lòng mạch. C, Sau đặt stent, cầu nối động mạch cánh tay đầu – cảnh gốc trái (mũi tên)